TKV dự kiến mỗi năm xuất khẩu gần 2 triệu tấn than chất lượng cao từ nay đến 2025, trong khi nhập về 70-75 triệu tấn than chất lượng kém hơn cho sản xuất công nghiệp.
Theo tờ trình Thủ tướng Phạm Minh Chính về phê duyệt kế hoạch sản xuất kinh doanh, đầu tư 5 năm (2021 – 2025) của Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam (TKV), dự báo nhu cầu tiêu thụ than trong nước những năm tới vẫn tăng cùng sự phục hồi các ngành như xi măng, sản xuất vật liệu xây dựng, hoá chất… sau dịch.
Theo đó, tổng nhu cầu than trong nước năm 2022 hơn 108,4 triệu tấn, sẽ tăng lên gần 115 triệu tấn vào 2025 và đạt lần lượt 137,3 triệu tấn và 150,5 tấn vào 2030 và 2040. Trong đó, than cho các ngành công nghiệp (điện, phân bón, xi măng, luyện kim…) chiếm khoảng 90-94%.
Với nhu cầu này, năng lực sản xuất than trong nước của “ông lớn” ngành than chỉ đáp ứng được 40-45% trong 5 năm tới. Phần thiếu hụt còn lại, tập đoàn này phải nhập khẩu, để đảm bảo sản lượng cung ứng cho các hộ sản xuất công nghiệp trong nước, nhất là than cho sản xuất điện (than trong nước và pha trộn nhập khẩu cho các nhà máy hiện đã ký hợp đồng cung ứng dài hạn với TKV).
Dự báo lượng than nhập khẩu dao động khoảng 70-75 triệu tấn mỗi năm đến năm 2025, do nhu cầu sẽ không tăng cao như các dự báo đưa ra trước đây và tốc độ tăng trưởng cũng không bằng giai đoạn trước. Như vậy, nhu cầu nhập khẩu than cho sản xuất công nghiệp (điện, xi măng, luyện kim…) trong nước giai đoạn tới sẽ tăng hơn gấp đôi so với 2016-2020.
Trong khi mỗi năm nhập hàng chục triệu tấn than về cho sản xuất công nghiệp, mỗi năm TKV xuất khẩu gần 2 triệu tấn than.
Lý do, than dành cho xuất khẩu là than chất lượng cao, giá trị cao. Than xuất khẩu chủ yếu là than cục, than cám (cám 1, 2 và 3), loại than chất lượng cao được sản xuất đồng thời với chủng loại than khác theo dây chuyền công nghệ. Đây là loại than trong nước không có nhu cầu sử dụng, hoặc sử dụng không hết và còn dư. Khả năng sản xuất của TKV với loại than này bình quân khoảng 2- 2,1 triệu tấn một năm.
Thực tế, cơ cấu than xuất khẩu đã giảm từ 17 triệu tấn năm 2011 xuống còn quanh 1 triệu tấn giai đoạn 2016 – 2020.
Tập đoàn này cho rằng, nhu cầu trong nước không tiêu dùng hết than chất lượng cao, nên việc tiếp tục cho phép xuất khẩu sẽ đem lại hiệu quả kinh tế cho doanh nghiệp, giúp TKV ổn định sản xuất kinh doanh và tăng nộp ngân sách. Bởi, một tấn than cục, than cám chất lượng cao xuất khẩu có giá trị tương đương 2-2,5 tấn than tham cho sản xuất điện. Việc này sẽ giúp doanh nghiệp ổn định sản xuất kinh doanh, sử dụng hiệu quả tài nguyên, tăng nộp ngân sách.
Việc tiếp tục cho phép xuất khẩu than chất lượng cao nhận được đồng tình từ Uỷ ban Quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp – cơ quan chủ sở hữu phần vốn Nhà nước tại TKV.
Tuy nhiên, do nhu cầu nhập khẩu than ước tính 70-75 triệu tấn mỗi năm trong 5 năm tới và khối lượng nhập khẩu vượt xa khả năng sản xuất trong nước, nên Uỷ ban này đề nghị TKV nhanh chóng xác định, hoạch định các giải pháp kỹ thuật để từng bước chuyển đổi mô hình tập đoàn này từ “sản xuất than” sang “sản xuất – thương mại than”.
Bộ Kế hoạch & Đầu tư khi góp ý, đề nghị TKV phân tích, đánh giá việc kinh doanh, sử dụng than khai thác làm nguyên liệu cho sản xuất điện, phân bón… cũng như việc xuất khẩu, nhập khẩu theo cơ cấu thị trường, sản phẩm.
Còn Bộ Công Thương muốn “ông lớn” ngành than đánh giá kỹ hơn việc cung ứng than cho sản xuất điện, phân bón khi còn tồn tại, khó khăn thời gian qua.
Việc cung ứng than cho điện chưa đảm bảo cũng được Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) nêu trong báo cáo tổng kết tuần trước. Ông Nguyễn Tài Anh, Phó tổng giám đốc EVN cho biết, tổng khối lượng than cấp năm nay của TKV là 16,8 triệu tấn, đạt gần 97% hợp đồng, và Tổng công ty Đông Bắc chỉ đạt hơn 82%, với 5,23 triệu tấn.
Đầu năm, giá than thế giới tăng cao, nguồn nhập khẩu hạn chế nên TKV và Tổng công ty Đông Bắc không nhập đủ để sản xuất pha trộn, cấp cho các nhà máy nhiệt điện. Các tháng cuối năm, Tổng công ty Đông Bắc cấp than pha trộn hoàn toàn cho các nhà máy nhiệt điện và dừng cấp cho các các nhà máy điện Nghi Sơn 1, Thái Bình nên tồn kho than rất thấp. Việc này, theo ông Tài Anh, sẽ ảnh hưởng lớn cho sản xuất điện mùa khô 2023.
Cũng theo tờ trình, giai đoạn 2021-2025, dự báo tổng lượng than thương phẩm sản xuất của TKV khoảng hơn 200 triệu tấn. Bình quân mỗi năm TKV sẽ tăng khai thác khoảng trên 1,3 triệu tấn than, nhờ một số dự án đầu tư mỏ sẽ hoàn thành, vận hành sản xuất như khai thác hầm lò dưới mức -150 mỏ Mạo Khê; dự án mở rộng, nâng công suất mỏ Na Dương; dự án cải tạo mở rộng khai thác lộ thiên Tây Khe Sim…
Với sản phẩm đồng tấm, hiện dự án mở rộng, nâng cấp công suất Nhà máy luyện đồng Lào Cai đã hoàn thành, nâng năng lực sản xuất đồng tấm từ 10.000 tấn mỗi năm lên 25.000 tấn và sẽ đạt 30.000 tấn trong 3 năm tới.
Dự báo tình hình kinh tế trong nước vẫn tiềm ẩn khó khăn, Uỷ ban Quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp cho rằng, sau khi được Thủ tướng phê duyệt kế hoạch này, TKV cần triển khai giải pháp, huy động tối đa nguồn lực sẵn có, nguồn lực ngoài tập đoàn để đầu tư, phát triển, nhấ là lĩnh vực sản xuất kinh doanh chính.
Uỷ ban này cũng cho rằng, TKV cần đẩy mạnh đầu tư việc thăm dò các loài khoáng sản để chuẩn bị đủ tài nguyên, trữ lượng; bám sát nhu cầu thị trường để điều hành sản xuất hợp lý để giảm lượng than tồn kho, nâng cao công tác dự báo để có kế hoạch, hoạt động sản xuất sát thực tế…
Doanh nghiệp cũng cần áp dụng đồng bộ giải pháp kỹ thuật, quản lý để tiết kiệm tài nguyên, chi phí trong các khâu thăm dò, khai thác, chế biến, kinh doanh than, khoáng sản…
Nguồn: Anh Minh – Báo vietnamnet